Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại COP26, cam kết về các biện pháp giảm phát thải, trong đó có các biện pháp tài chính
Tại hội nghị Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu năm 2021 (COP26), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nêu cam kết của Việt Nam trong việc “sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ hơn nữa bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050″.
Qua đó, Việt Nam có thể thu hút được nguồn tài chính xanh từ gói tài chính được cam kết từ các quốc gia với 100 tỷ USD mỗi năm cho phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và năng lượng tái tạo. Đồng thời, Việt Nam chủ trương kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường, thực hiện có trách nhiệm các cam kết quốc tế về tăng trưởng xanh, bền vững.
Ngoài ra, tại COP26 đã có 196 quốc gia đồng ý với ‘Gói Thỏa thuận Khí hậu Glasgow’ – hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở ngưỡng 1,5 độ C; đồng ý với quy tắc minh bạch về giảm phát thải, tiêu chuẩn giao dịch carbon (Bộ quy tắc về Thỏa thuận khí hậu Paris).
Vương quốc Anh hợp tác định hướng xây dựng thị trường vốn xanh tại Việt Nam
Hội thảo “Báo cáo Khảo sát và Khuyến nghị hướng tới xây dựng Thị trường vốn xanh” đã được Đại sứ quán Anh phối hợp với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước tổ chức vào ngày 17/12/2021.
Đây là hoạt động thuộc Hợp phần Tài chính xanh của Chương trình Hỗ trợ Các-bon thấp của Vương quốc Anh dành cho các nước ASEAN (LCEP, 2019-2022) do Ernst & Young là đơn vị chủ trì tư vấn.
Nội dung nghiên cứu và phân tích của báo cáo bao gồm khảo sát các bên tham gia thị trường (thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) để tìm ra những thách thức, vướng mắc của thành viên thị trường khi tiếp cận và phát hành trái phiếu xanh và thực hành báo cáo môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Trong những năm vừa qua, phát triển bền vững đã trở thành một xu hướng chung trên toàn cầu. Theo Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS), nhu cầu đầu tư xanh của khu vực ASEAN lên đến 200 tỷ đô la mỗi năm. Đây là một cơ hội rất lớn cho hệ thống tài chính. Tính riêng trong năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, thị trường đầu tư xanh và bền vững của khu vực ASEAN đã đạt giá trị 12.1 tỷ đô la phát hành, tăng 5.2% so với 2019.
Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế và đánh giá bối cảnh ở Việt Nam, Ernst & Young đưa ra khuyến nghị về những nhóm hành động mà Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần nghiên cứu thực hiện để thúc đẩy thị trường vốn xanh, với các mục tiêu cụ thể bao gồm thúc đẩy doanh nghiệp phát hành trái phiếu xanh và cải thiện số lượng và chất lượng báo cáo ESG.
Nghiên cứu đã đề xuất một khung kế hoạch hành động thúc đẩy thị trường vốn xanh cùng lộ trình triển khai trong giai đoạn 5 năm, hướng tới xây dựng thị trường vốn xanh mà Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có thể chủ trì thực hiện hoặc tham gia phối hợp thực hiện với các bên liên quan, và các hành động cần ưu tiên triển khai ngay trong năm 2022.
Hội thảo trực tuyến với chủ đề: “Công trình xanh – Tài chính xanh trong phát triển dự án bất động sản” do Realcom tổ chức
Ở buổi hội thảo ngày 6/1/2022 các diễn giả đã thảo luận về vấn đề vốn và tài chính cho bất động sản xanh một cách cụ thể.
Ông Trần Thành Vũ – Chủ tịch Hội Mô phỏng hiệu năng công trình xây dựng chia sẻ, BĐS xanh bị ảnh hưởng bởi những tính toán liều và ẩu trên thị trường nên khiến chi phí cho hệ thống kỹ thuật bị “phóng đại” lên rất nhiều. Điều đáng buồn ở đây đó là mô hình dự báo vận hành công trình giúp cụ thể các khoản chi phí (điều các chủ đầu tư quan tâm) chưa xuất hiện ở Việt Nam, chính vì vậy không phải chủ đầu tư nào cũng hiểu rõ điểm này.
Cũng theo ông Vũ, phân loại công trình tiết kiệm năng lượng là cơ sở then chốt để “mở chốt” các ưu đãi về thuế, lãi vay, tầng cao, mật độ xây dựng, thủ tục cấp phép xây dựng…
Theo ông Hoàng Anh Dũng – chuyên gia Năng Lượng của công ty responsAbility investment AG và quỹ GCPF, bất động sản xanh là một xu hướng đầu tư vô cùng tiềm năng, tuy nhiên còn tương đối nhiều bất cập nên hiện trên thị trường có rất ít dự án liên quan.
Lý giải điều này, ông cho rằng nguyên nhân chính là do chưa có sự kết nối chính thức nào giữa Nhà nước và chủ đầu tư: Nhà nước chưa hề có bất kỳ chính sách khuyến khích nào cho chủ đầu tư thấy rõ lợi ích của mình. Bên cạnh đó, dòng sản phẩm bất động sản còn nằm trong danh sách hạn chế bởi ngân hàng Nhà nước. Lý do cuối cùng là rất ít chủ đầu tư đưa ra được phương hướng cụ thể về vấn đề xây dựng sản phẩm chắc chắn vươn tới khách hàng.
Theo ông Dũng, đòn bẩy tài chính kích thích phát triển các sản phẩm khoa học công nghệ kỹ thuật, đầu tư dự án sử dụng hiệu quả năng lượng, giảm phát thải khí CO2, giảm sự phụ thuộc vào năng lượng tái tạo đồng thời giảm tiêu cực đến môi trường và xã hội. “Cần có thêm chính sách khuyến khích từ Chính phủ, bộ ngành cho các dự án bất động sản xanh cũng như cơ chế, quy trình phát triển cụ thể”.
Chuyên gia cũng cho biết thêm, tại Việt Nam, việc thu hút vốn vào bất động sản xanh thông qua các quỹ đầu tư nước ngoài rất hạn chế vì BĐS nói chung là sản phẩm khá rủi ro. Bên cạnh đó, một số chủ đầu tư đã thành công khi phát hành trái phiếu xanh. Tuy nhiên, đây là những doanh nghiệp quản lý rủi ro tốt, cam kết cho cộng đồng rất tốt, cùng với đó là doanh nghiệp cũng có định hướng và chiến lược rõ ràng trong phát triển cũng như nắm được các yêu cầu của tổ chức quốc tế.
Bà Nguyễn Bích Ngọc – CEO & Founder Công ty Cổ phần Dịch vụ Bất động sản Sen Vàng cũng bổ sung: “Việc phát hành trái phiếu xanh là vấn đề mà các tập đoàn, chủ đầu tư lớn cần quan tâm. Vì đó không chỉ là câu chuyện thu hút vốn để phát triển mà còn khẳng định thương hiệu doanh nghiệp. Các quỹ nước ngoài họ yêu cầu cao nên chỉ phù hợp với các tập đoàn lớn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp khác đến với các quỹ để tìm kiếm sự tư vấn, qua đó sẽ có định hướng để thu hút vốn trong tương lai.”
- Kết luận-dự báo
- Xu thế tất yếu nhưng nhiều rào cản
BĐS xanh có tiềm năng rất lớn, tuy nhiên còn tương đối nhiều bất cập nên hiện trên thị trường có rất ít dự án liên quan, trong đó lý do từ phía tài chính hỗ trợ cho thị trường này chưa phát triển.
Ở góc độ quản lý, thì cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý cho tín dụng xanh cũng như liên quan đến tín dụng xanh, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững còn chưa hiệu quả và đồng bộ. Trong đó, chính sách về nghiệp vụ cho vay tín dụng xanh được hầu hết các ngân hàng thương mại cho rằng vẫn là rào cản lớn nhất, tiếp đến vấn đề bảo đảm tiền vay, xử lý tài sản đảm bảo, chính sách về đầu tư, nghiệp vụ tài trợ thương mại (bảo lãnh và chiết khấu)…
Trong năm 2021, tuy có điểm nhấn nổi bật là cam kết của chính phủ Việt Nam tại COP21, song về thực tế chương trình hành động chưa được thực thi bằng các chính sách trực tiếp.
2. Giải pháp thúc đẩy
Để phát triển tín dụng xanh hiệu quả, theo khuyến nghị của nhóm nghiên cứu đề tài này thuộc Trường Đại học Thương mại, công bố tại Hội thảo về phát triển dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm trong bối cảnh mới, diễn ra ngày 12/10/2021, thì Nhà nước cần xây dựng khung chính sách, khuôn khổ pháp lý đồng bộ, cụ thể, rõ ràng, thống nhất về ngân hàng xanh cho các tổ chức tín dụng; có cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ các tổ chức tín dụng phát triển ngân hàng xanh; đẩy mạnh đào tạo và truyền thông; có chính sách thuế ưu đãi đối với các khoản cho vay tín dụng xanh; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính…
Về phía các tổ chức tín dụng, cần xây dựng khung chiến lược về phát triển ngân hàng xanh theo các cấp độ từ thấp đến cao; thiết lập hệ thống quản lý rủi ro môi trường, xã hội một cách toàn diện; xây dựng các chính sách cho vay cụ thể đối với các lĩnh vực môi trường nhạy cảm; tăng cường đào tạo, nâng cao nhận thức về tín dụng xanh và nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu.
Cũng ở góc độ nghiên cứu khoa học, PGS. Nguyễn Thị Thanh Tú – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Việt – Nhật, cho rằng: Ngân hàng có vai trò quan trọng trong thúc đẩy chuyển đổi sang phát triển kinh tế xanh thông qua cung cấp tín dụng xanh. Do vậy, cần có tác động cả về chính sách và sự chủ động của các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp tín dụng xanh tới các doanh nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp, nhà đầu tư chủ động chuyển sang đầu tư xanh. Cần làm rõ vai trò của Ngân hàng Phát triển Việt Nam trong việc cung cấp các khoản tín dụng xanh cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, cũng không nên quá nghiêng về việc ưu đãi tín dụng cho các dự án đầu tư xanh, mà cần đánh giá cả các tác động ngược từ các khoản tín dụng cho vay xanh.